Câu
chuyện của Wal-Mart bắt đầu từ giữa thế kỷ trước, khi cửa hàng 5 xu và 1
hào (five-and-dime) đầu tiên của đôi vợ chồng Sam Walton và Helen
Walton ra đời. Sau khi xuất ngũ vào năm 1945, Sam Walton mua lại cửa
hàng tạp phẩm Ben Franklin ở Newport, Arkansas. (Nơi chỉ có hơn 10.000
dân). Walton nhanh chóng trở thành một thương gia tuyệt với của thị trấn
nhỏ này, đáp ứng được những sở thích và nhu cầu đặc biệt của những
người dân địa phương. Cùng lúc đó, ông bắt đầu tìm kiếm những nguồn hàng
trong vùng có giá rẻ hơn nguồn hàng hiện thời của ông. Sau khi làm việc
cả ngày ở cửa hàng, ông buộc một chiếc xe rơ-moóc vào ôtô và lái xuyên
qua địa phận bang Tennessee và Missouri để tìm kiếm những sản phẩm mà
khách hàng của ông mong muốn. Sau đó ông bán chúng với giá rẻ nhất có
thể, và nhanh chóng bán sạch hàng hóa của mình. Dĩ nhiên Walton cũng đã
nhận thức được sự cần thiết của việc hạ giá bằng cách giảm giá, doanh số
và lợi nhuận đã tăng vụt.
Những người ở Ben Franklin không thích điều
này, nhưng khách hàng thì chắc chắn là có. Chỉ trong vòng chưa đến 5
năm, cửa hàng của Walton đã là một thành quả tuyệt vời. Tuy nhiên, người
chủ mặt bằng nơi Walton thuê đã quyết định rằng đó là một nơi lý tưởng
cho công việc kinh doanh của con trai ông ta, và ông này đã từ chối cho
Walton tiếp tục thuê cửa hàng. Lúc này, Walton không còn nơi nào để đi
trong ngôi làng nhỏ này, ông buộc phải bán xới tất cả và bắt đầu lại từ
đầu ở một nơi khác. Ông đến thị trấn Bentonville - một thị trấn còn nhỏ
bé hơn thị trấn trước, như ông đã lưu lại trong trí nhớ - bởi vì nơi đây
tạo cơ hội cho ông tiếp cận mùa đi săn của cả bốn bang.
Trong khoảng thời gian này, ông đọc được về hai cửa hàng “tự phục
vụ” giảm giá ở Minnesota, và sau khi ghé thăm những nơi đó, ông đã quyết
định rằng cửa hàng mới của ông ở Bentonville cũng sẽ có những kệ hàng
hóa với quầy thu ngân ở phía trước. Ông gọi nó là cửa hàng Five and Dime
của Walton, và tung ra những đợt khuyến mãi đặc biệt, ví dụ như một tá
kẹp áo chỉ có giá 9 cent. Những khách hàng hổ hởi kéo đến từ ngày đầu
tiên khai trương, và không hề có dấu hiệu sẽ giảm trong những ngày kế
tiếp.
Vào năm 1960, Walter và em trai mình, James L. “Bud” Walton, đã sở
hữu 15 cửa hàng như vậy, kiếm được 1,4 triệu đô-la tổng doanh thu hàng
năm. Nhưng Sam - như Walton vẫn thích được gọi như vậy - vẫn chưa thỏa
mãn và bắt đầu xem xét những cách thức mới để mở rộng mô hình kinh
doanh. Ông nhận thấy có một trong số những cửa hàng hạ giá bất ngờ nổi
lên trong khu vực nội thành bằng cách bán nhiều loại hàng hóa với giá rẻ
hơn tất cả các đối thủ cạnh tranh khác. Khi một trong số đó bắt đầu mở
rộng đến nơi ông sinh sống ở Arkansas, Walton biết rằng mình phải hành
động ngay. Và vào ngày 2 tháng 7/1962 - ở tuổi 44 - ông cho khai trương
cửa hàng Wal-Mart số 1 ở Rogers.
Mọi người đều cho rằng giấc mơ đem loại hình bán hàng hạ giá đến
những thị trấn nhỏ, hẻo lánh của ông là điên rồ. Ông và Helen buộc phải
cùng ký vào tất cả các giấy vay tiền, thế chấp căn nhà và tài sản của họ
để bảo đảm. Nhưng ý tưởng
này rất được ưa chuộng. Trong vòng 5 năm, ông đã có 19 cửa hàng như
vậy, bao gồm cả cửa hàng cũ của ông ở Newport (nơi mà cửa hàng Ben
Franklin của con trai ông chủ cho thuê mặt bằng dạo ấy đã đóng cửa).
Ngược lại, Kmart mở 250 cửa hàng vào cùng thời gian đó, nhưng họ kiên
quyết bỏ qua những thị trấn với dân số ít hơn 50.000 người, tạo cơ hội
cho Wal-Mart thoải mái khai thác khu vực của mình.
Walton tập trung áp dụng những gì ông đã học được trong suốt hai
thập niên đã qua. Mỗi cửa hàng đều phục vụ sở thích của người dân địa
phương và đề cao những loại hàng hóa sản xuất trong vùng. Tất cả đều tôn
vinh các thành tựu của thành phố quê hương và hỗ trợ các hội từ thiện
lân cận. Các nhân viên được gọi là “cộng tác viên” và được đề nghị các
kế hoạch chia sẻ lợi nhuận rất hào phóng. Những người mua hàng được tiếp
đón nồng hậu mỗi khi ghé đến cửa hàng. Kiến trúc xây dựng được xếp thứ
yếu; sự đa dạng của hàng hóa là điều quan trọng nhất. Và nhất là, giá cả
ở các cửa hàng này hầu như không thể thấp hơn được nữa. Đó là mô hình
đã giúp Wal-Mart trở nên ngày càng thịnh vượng. Vào năm 1970, Wal-mart
được cổ phần hóa.
Lợi nhuận ngày càng tăng đã thúc đẩy sự phát triển của công ty sang
một giai đoạn mới. Họ đã bỏ tiền xây dựng một hệ thống tự phân loại và
phân phối, mang hàng hóa đến cho những nơi xa xôi hẻo lánh mà các nhà
cung cấp truyền thống không thể đến được. Công ty cũng làm cho những
người sáng lập ra nó trở nên vô cùng giàu có, nhưng không làm thay đổi
đáng kể những giá trị hay kế hoạch của họ. Giống như ông chủ cũ James
Cash Penney, Walton cố gắng đến thăm mỗi cửa hàng ít nhất một lần trong
năm. Và ngay cả khi ông còn mua cả một chiếc phi cơ riêng để làm việc đó
(do ông tự lái), ông vẫn lái chiếc xe chở hàng Ford quanh thị trấn
Bentonville. Ông đã từng hỏi: “Tôi nên chở những con chó của tôi đi lòng
vòng bằng gì đây, một chiếc Rolls-Royce ư?”.
Vào thập niên 80, Wal-Mart bắt đầu thực hiện việc vi tính hóa khâu
bán hàng và kho hàng, làm cho công việc trở nên ngày càng hiệu quả. Họ
đã trở thành một nỗi ghen tị của nền công nghiệp bán lẻ. Mặc dù vậy,
Walton vẫn bám sát từng khía cạnh trong hoạt động kinh doanh của công
ty. Ông vẫn đội chiếc nón Wal-Mart, đeo bảng tên và đi từ cửa hàng này
sang cửa hàng khác, khích lệ các cộng tác viên với bài cổ vũ nổi tiếng
của mình (Cho tôi chữ W…, cho tôi chữ A…), hỏi han họ về giá cả cũng như
phần trăm doanh thu. Nếu một đối thủ cạnh tranh khai trương một cửa
hàng gần đó, ông liền bỏ chiếc nón và bảng tên ra, và đi kiểm tra cửa
hàng này ngay. Thông thường, ông thường chiêu đãi các nhân viên một giờ
ăn trưa. Thậm chí có một lần, ông còn đem theo rất nhiều bánh rán đến
trung tâm phân phối của công ty vào lúc 2h30 sáng, để chiêu đãi những
công nhân ca đêm ở bãi chất hàng.
Walton được xem là người giàu nhất nước Mỹ lần đầu tiên vào năm
1985. Tuy nhiên, ông ghét danh hiệu đó đến nỗi ông đã chia hàng tỷ đôla
của ông cho các thành viên trong gia đình. Thứ duy nhất có thể khuất
phục tinh thần làm việc không biết mệt mỏi của ông là căn bệnh ung thư
xương, nó đã thật sự khiến ông gục ngã, chỉ một tháng sau khi Tổng thống
Bush cha trao tặng ông Huy chương Tự do của Tổng thống. Bush đã gọi ông
là “một người Mỹ tiêu biểu cho tinh thần doanh nhân và là mẫu mực cho
giấc mơ Mỹ”.
Theo Huongnghiep.com.vn

0 Response to "Câu chuyện của Wal-Mart: Giàu nhất nhờ bán hàng rẻ nhất"
Post a Comment