Việc đi vay này là nhằm tài trợ cho các
khoản thâm hụt ngân sách nên nói cách khác, nợ chính phủ là thâm hụt
ngân sách luỹ kế đến một thời điểm nào đó. Để dễ hình dung quy mô của nợ
chính phủ, người ta thường đo xem khoản nợ này bằng bao nhiêu phần trăm
so với Tổng sản phẩm quốc nội (GDP).
1. Nợ chính phủ thường được phân loại như sau:
Nợ trong nước (các khoản vay từ người cho vay trong nước) và nợ nước ngoài (các khoản vay từ người cho vay ngoài nước).
Nợ ngắn hạn (từ 1 năm trở xuống), nợ trung hạn (từ trên 1 năm đến 10 năm) và nợ dài hạn (trên 10 năm).
2. Các hình thức vay nợ của chính phủ
Phát hành trái phiếu chính phủ
Chính phủ có thể phát hành Trái phiếu
chính phủ để vay từ các tổ chức, cá nhân. Trái phiếu chính phủ phát hành
bằng nội tệ được coi là không có rủi ro tín dụng vì Chính phủ có thể
tăng thuế thậm chí in thêm tiền để thanh toán cả gốc lẫn lãi khi đáo
hạn. Trái phiếu chính phủ phát hành bằng ngoại tệ (thường là các ngoại
tệ mạnh có cầu lớn) có rủi ro tín dụng cao hơn so với khi phát hành bằng
nội tệ vì chính phủ có thể không có đủ ngoại tệ để thanh toán và ngoài
ra còn có rủi ro về tỷ giá hối đoái.
Vay trực tiếp
Chính phủ cũng có thể vay tiền trực tiếp
từ các ngân hàng thương mại, các thể chế siêu quốc gia (ví dụ: Quỹ Tiền
tệ Quốc tế)… Hình thức này thường được Chính phủ của các nước có độ tin
cậy tín dụng thấp áp dụng vì khi đó khả năng vay nợ bằng hình thức phát
hành trái phiếu chính phủ của họ không cao.
3. Các vấn đề gặp phải khi tính toán nợ chính phủ
Lạm phát
Chỉ tiêu thâm hụt ngân sách khi tính
toán thường không điều chỉnh ảnh hưởng của lạm phát vì trong tính toán
chi tiêu của Chính phủ, người ta tính toán các khoản trả lãi vay theo
lãi suất danh nghĩa trong khi đáng lẽ chỉ tiêu này chỉ nên tính theo lãi
suất thực tế. Do lãi suất danh nghĩa bằng lãi suất thực tế cộng với tỷ
lệ lạm phát, nên thâm hụt ngân sách đã bị phóng đại. Trong những thời kỳ
lạm phát ở mức cao và nợ chính phủ lớn thì ảnh hưởng của yếu tố này rất
lớn.
Tài sản đầu tư
Nhiều nhà kinh tế cho rằng tính toán nợ
chính phủ cần phải trừ đi tổng giá trị của tài sản chính phủ. Điều này
cũng đơn giản như khi xử lý tài sản của cá nhân: khi một cá nhân vay
tiền để mua nhà thì không thể tính anh ta đã thâm hụt ngân sách bằng số
tiền đã vay mà phải trừ đi giá trị của căn nhà. Tuy nhiên khi tính toán
theo phương pháp này lại gặp phải vấn đề những gì nên coi là tài sản của
chính phủ và tính toán giá trị của chúng như thế nào, ví dụ: đường quốc
lộ, kho vũ khí hay chi tiêu cho giáo dục…
Các khoản nợ tiềm tàng
Nhiều nhà kinh tế lập luận rằng tính
toán nợ chính phủ đã bỏ qua các khoản nợ tiềm tàng như tiền trợ cấp hưu
trí, các khoản bảo hiểm xã hội mà chính phủ sẽ phải chi trả cho người
lao động hay các khoản mà chính phủ sẽ phải chi trả khi đứng ra bảo đảm
cho các khoản vay của người có thu nhập thấp mà trong tương lai họ không
có khả năng thanh toán…
4. Tác động của nợ chính phủ
Về tính trung lập của nợ chính phủ
Có hai quan điểm chính về việc nợ chính phủ có tác động đến nền kinh tế hay không.
Quan điểm truyền thống cho rằng biện
pháp cắt giảm thuế được bù đắp bằng nợ chính phủ kích thích tiêu dùng và
làm giảm tiết kiệm quốc dân. Sự gia tăng tiêu dùng làm tăng tổng cầu và
thu nhập quốc dân trong ngắn hạn nhưng dẫn đến khối lượng tư bản ít hơn
(do đầu tư giảm) và thu nhập quốc dân thấp hơn trong dài hạn.
Quan điểm Barro-Ricardo lại cho rằng
biện pháp cắt giảm thuế được bù đắp bằng nợ chính phủ không kích thích
chi tiêu ngay cả trong ngắn hạn vì không làm tăng thu nhập thường xuyên
của các cá nhân mà nó chỉ làm dịch chuyển thuế từ hiện tại sang tương
lai. Các cá nhân dự tính rằng, hiện giờ chính phủ giảm thuế và phát hành
trái phiếu bù đắp thâm hụt, thì đến một thời điểm trong tương lai chính
phủ sẽ lại tăng thuế để có tiền trả nợ hoặc in tiền để trả nợ (mà hậu
quả là lạm phát tăng tốc); do đó, người ta tiết kiệm hiện tại để có tiền
đóng thuế trong tương lai hoặc mua hàng hóa và dịch vụ sẽ lên giá.
Hai quan điểm nói trên tuy khác nhau
nhưng cùng xuất phát từ hành vi của người tiêu dùng và do vậy khi áp
dụng cần nghiên cứu hành vi của người tiêu dùng.
Về hiệu suất của tác động từ nợ chính phủ tới tăng trưởng kinh tế
Trong những năm gần đây, hầu hết các nhà
kinh tế đều cho rằng trong dài hạn một khoản nợ chính phủ lớn (tỷ lệ
của nó so với GDP cao) làm cho sự tăng trưởng của sản lượng tiềm năng
chậm lại vì những lý do sau:
Nếu một quốc gia có nợ nước ngoài lớn
thì quốc gia đó buộc phải tăng cường xuất khẩu để trả nợ nước ngoài và
do đó khả năng tiêu dùng giảm sút.
Một khoản nợ công cộng lớn gây ra hiệu
ứng thế chỗ cho vốn tư nhân: thay vì sở hữu cổ phiếu, trái phiếu công
ty, dân chúng sở hữu nợ chính phủ (trái phiếu chính phủ). Điều này làm
cho cung về vốn cạn kiệt vì tiết kiệm của dân cư đã chuyển thành nợ
chính phủ dẫn đến lãi suất tăng và các doanh nghiệp hạn chế đầu tư.
Nợ trong nước tuy được coi là ít tác
động hơn vì trên góc độ nền kinh tế là một tổng thể thì chính chủ chỉ nợ
công dân của chính nước mình, tuy vậy nếu nợ trong nước lớn thì chính
phủ buộc phải tăng thuế để trả lãi nợ vay. Thuế làm méo mó nền kinh tế,
gây ra tổn thất vô ích về phúc lợi xã hội.
Ngoài ra, còn có một số quan điểm cho
rằng việc chính phủ sử dụng công cụ nợ để điều tiết kinh tế vĩ mô sẽ
không có hiệu suất cao vì có hiện tượng crowding out (đầu tư cho chi
tiêu của chính phủ tăng lên).
Chính phủ muốn tăng chi tiêu công cộng
để kích cầu thì phát hành trái phiếu chính phủ. Phát hành thêm trái
phiếu chính phủ thì giá trái phiếu chính phủ giảm, thể hiện qua việc
chính phủ phải nâng lãi suất trái phiếu thì mới huy động được người mua.
Lãi suất trái phiếu tăng thì lãi suất chung của nền kinh tế cũng tăng.
Điều này tác động tiêu cực đến động cơ đầu tư của khu vực tư nhân, khiến
họ giảm đầu tư. Nó còn tác động tích cực đến động cơ tiết kiệm của
người tiêu dùng, dẫn tới giảm tiêu dùng. Nó còn làm cho lãi suất trong
nước tăng tương đối so với lãi suất nước ngoài, dẫn tới luồng tiền từ
nước ngoài đổ vào trong nước khiến cho tỷ giá hối đoái tăng làm giảm
xuất khẩu ròng. Tóm lại, phát hành trái phiếu tuy có làm tăng tổng cầu,
song mức tăng không lớn vì có những tác động phụ làm giảm tổng cầu.
Nếu coi việc nắm giữ trái phiếu chính
phủ là một hình thức nắm giữ tài sản thì khi chính phủ tăng phát hành
trái phiếu sẽ đồng thời phải tăng lãi suất, người nắm giữ tài sản thấy
mình trở nên giàu có hơn và tiêu dùng nhiều hơn. Tổng cầu nhận được tác
động tích cực từ việc tăng chi tiêu chính phủ (nhờ phát hành công trái)
và tăng tiêu dùng nói trên. Tuy nhiên, tăng tiêu dùng dẫn tới tăng lượng
cầu tiền. Điều này gây ra áp lực lạm phát, vì thế tác động tiêu cực tới
tốc độ tăng trưởng thực (bằng tốc độ tăng trưởng danh nghĩa trừ tỷ lệ
lạm phát).
Theo Tinforex.com
0 Response to "Nợ công là gì?"
Post a Comment