Việc đi vay này là nhằm tài trợ cho các khoản
thâm hụt ngân sách nên nói cách khác, nợ chính phủ là thâm hụt ngân sách luỹ kế
đến một thời điểm nào đó. Để dễ hình dung quy mô của nợ chính phủ, người ta
thường đo xem khoản nợ này bằng bao nhiêu phần trăm so với Tổng sản phẩm quốc
nội (GDP).
Nợ chính phủ thường được phân loại như
sau:
_ Nợ trong nước (các khoản vay từ người cho vay
trong nước) và nợ nước ngoài (các khoản vay từ người cho vay ngoài nước).
_ Nợ ngắn hạn (từ 1 năm trở xuống), nợ trung hạn
(từ trên 1 năm đến 10 năm) và nợ dài hạn (trên 10 năm).
Các hình thức vay nợ của chính
phủ
Phát hành trái phiếu chính
phủ
Chính phủ có thể phát hành Trái phiếu chính phủ
để vay từ các tổ chức, cá nhân. Trái phiếu chính phủ phát hành bằng nội tệ được
coi là không có rủi ro tín dụng vì Chính phủ có thể tăng thuế thậm chí in thêm
tiền để thanh toán cả gốc lẫn lãi khi đáo hạn. Trái phiếu chính phủ phát hành
bằng ngoại tệ
(thường là các ngoại tệ mạnh có cầu lớn) có rủi ro tín dụng cao hơn so với khi
phát hành bằng nội tệ vì chính phủ có thể không có đủ ngoại tệ để thanh toán và
ngoài ra còn có rủi ro về tỷ giá hối đoái.
Vay trực tiếp
Chính phủ cũng có thể vay tiền trực tiếp từ các
ngân hàng thương mại, các thể chế siêu quốc gia (ví dụ: Quỹ Tiền tệ Quốc tế)…
Hình thức này thường được Chính phủ của các nước có độ tin cậy tín dụng thấp áp
dụng vì khi đó khả năng vay nợ bằng hình thức phát hành trái phiếu chính phủ của
họ không cao.
Các vấn đề gặp phải khi tính toán nợ
chính phủ
Lạm phát
Chỉ tiêu thâm hụt ngân sách khi tính toán thường
không điều chỉnh ảnh hưởng của lạm phát vì trong tính toán chi tiêu của Chính
phủ, người ta tính toán các khoản trả lãi vay theo lãi suất danh nghĩa trong khi
đáng lẽ chỉ tiêu này chỉ nên tính theo lãi suất thực tế. Do lãi suất danh nghĩa
bằng lãi suất thực tế cộng với tỷ lệ lạm phát, nên thâm hụt ngân sách đã bị
phóng đại. Trong những thời kỳ lạm phát ở mức cao và nợ chính phủ lớn thì ảnh
hưởng của yếu tố này rất lớn.
Tài sản đầu tư
Nhiều nhà kinh tế cho rằng tính toán nợ chính phủ
cần phải trừ đi tổng giá trị của tài sản chính phủ. Điều này cũng đơn giản như
khi xử lý tài sản của cá nhân: khi một cá nhân vay tiền để mua nhà thì không thể
tính anh ta đã thâm hụt ngân sách bằng số tiền đã vay mà phải trừ đi giá trị của
căn nhà. Tuy nhiên khi tính toán theo phương pháp này lại gặp phải vấn đề những
gì nên coi là tài sản của chính phủ và tính toán giá trị của chúng như thế nào,
ví dụ: đường quốc lộ, kho vũ khí hay chi tiêu cho giáo dục…
Các khoản nợ tiềm tàng
Nhiều nhà kinh tế lập luận rằng tính toán nợ
chính phủ đã bỏ qua các khoản nợ tiềm tàng như tiền trợ cấp hưu trí, các khoản
bảo hiểm xã hội mà chính phủ sẽ phải chi trả cho người lao động hay các khoản mà
chính phủ sẽ phải chi trả khi đứng ra bảo đảm cho các khoản vay của người có thu
nhập thấp mà trong tương lai họ không có khả năng thanh toán…
Tác động của nợ chính phủ
Về tính trung lập của nợ chính
phủ
Có hai quan điểm chính về việc nợ chính phủ có
tác động đến nền kinh tế hay không.
Quan điểm truyền thống cho rằng biện pháp cắt
giảm thuế được bù đắp bằng nợ chính phủ kích thích tiêu dùng và làm giảm tiết
kiệm quốc dân. Sự gia tăng tiêu dùng làm tăng tổng cầu và thu nhập quốc dân
trong ngắn hạn nhưng dẫn đến khối lượng tư bản ít hơn (do đầu tư giảm) và thu
nhập quốc dân thấp hơn trong dài hạn.
Quan điểm Barro-Ricardo lại cho rằng biện pháp
cắt giảm thuế được bù đắp bằng nợ chính phủ không kích thích chi tiêu ngay cả
trong ngắn hạn vì không làm tăng thu nhập thường xuyên của các cá nhân mà nó chỉ
làm dịch chuyển thuế từ hiện tại sang tương lai. Các cá nhân dự tính rằng, hiện
giờ chính phủ giảm thuế và phát hành trái phiếu bù đắp thâm hụt, thì đến một
thời điểm trong tương lai chính phủ sẽ lại tăng thuế để có tiền trả nợ hoặc in
tiền để trả nợ (mà hậu quả là lạm phát tăng tốc); do đó, người ta tiết kiệm hiện
tại để có tiền đóng thuế trong tương lai hoặc mua hàng hóa và dịch vụ sẽ lên
giá.
Hai quan điểm nói trên tuy khác nhau nhưng cùng
xuất phát từ hành vi của người tiêu dùng và do vậy khi áp dụng cần nghiên cứu
hành vi của người tiêu dùng.
Về hiệu suất của tác động từ nợ chính phủ
tới tăng trưởng kinh tế
Trong những năm gần đây, hầu hết các nhà kinh tế
đều cho rằng trong dài hạn một khoản nợ chính phủ lớn (tỷ lệ của nó so với GDP
cao) làm cho sự tăng trưởng của sản lượng tiềm năng chậm lại vì những lý do
sau:
_ Nếu một quốc gia có nợ nước ngoài lớn thì quốc
gia đó buộc phải tăng cường xuất khẩu để trả nợ nước ngoài và do đó khả năng
tiêu dùng giảm sút.
_ Một khoản nợ công cộng lớn gây ra hiệu ứng thế
chỗ cho vốn tư nhân: thay vì sở hữu cổ phiếu, trái phiếu công ty, dân chúng sở
hữu nợ chính phủ (trái phiếu chính phủ). Điều này làm cho cung về vốn cạn kiệt
vì tiết kiệm của dân cư đã chuyển thành nợ chính phủ dẫn đến lãi suất tăng và
các doanh nghiệp hạn chế đầu tư.
_ Nợ trong nước tuy được coi là ít tác động hơn
vì trên góc độ nền kinh tế là một tổng thể thì chính chủ chỉ nợ công dân của
chính nước mình, tuy vậy nếu nợ trong nước lớn thì chính phủ buộc phải tăng thuế
để trả lãi nợ vay. Thuế làm méo mó nền kinh tế, gây ra tổn thất vô ích về phúc
lợi xã hội.
Ngoài ra, còn có một số quan điểm cho rằng việc
chính phủ sử dụng công cụ nợ để điều tiết kinh tế vĩ mô sẽ không có hiệu suất
cao vì có hiện tượng crowding out (đầu tư cho chi tiêu của chính phủ tăng
lên).
_ Chính phủ muốn tăng chi tiêu công cộng để kích
cầu thì phát hành trái phiếu chính phủ. Phát hành thêm trái phiếu chính phủ thì
giá trái phiếu chính phủ giảm, thể hiện qua việc chính phủ phải nâng lãi suất
trái phiếu thì mới huy động được người mua. Lãi suất trái phiếu tăng thì lãi
suất chung của nền kinh tế cũng tăng. Điều này tác động tiêu cực đến động cơ đầu
tư của khu vực tư nhân, khiến họ giảm đầu tư. Nó còn tác động tích cực đến động
cơ tiết kiệm của người tiêu dùng, dẫn tới giảm tiêu dùng. Nó còn làm cho lãi
suất trong nước tăng tương đối so với lãi suất nước ngoài, dẫn tới luồng tiền từ
nước ngoài đổ vào trong nước khiến cho tỷ giá hối đoái tăng làm giảm xuất khẩu
ròng. Tóm lại, phát hành trái phiếu tuy có làm tăng tổng cầu, song mức tăng
không lớn vì có những tác động phụ làm giảm tổng cầu.
_ Nếu coi việc nắm giữ trái phiếu chính phủ là
một hình thức nắm giữ tài sản thì khi chính phủ tăng phát hành trái phiếu sẽ
đồng thời phải tăng lãi suất, người nắm giữ tài sản thấy mình trở nên giàu có
hơn và tiêu dùng nhiều hơn. Tổng cầu nhận được tác động tích cực từ việc tăng
chi tiêu chính phủ (nhờ phát hành công trái) và tăng tiêu dùng nói trên. Tuy
nhiên, tăng tiêu dùng dẫn tới tăng lượng cầu tiền. Điều này gây ra áp lực lạm
phát, vì thế tác động tiêu cực tới tốc độ tăng trưởng thực (bằng tốc độ tăng
trưởng danh nghĩa trừ tỷ lệ lạm phát).
Theo Thitruongngoaihoi.vn
0 Response to "Nợ công là gì? "
Post a Comment